“Cái lý” của những điều phi lý
Tuy nhiên, điều đặc biệt của nghị quyết lần này là có tới 188 quốc gia nhất trí, chỉ có Mỹ và Israel bỏ phiếu chống (3 thành viên còn lại bỏ phiếu trắng). Và cũng chính sự nhất trí cao như vậy của các nước thành viên LHQ lại càng làm rõ hơn những điều hết sức phi lý đang tồn tại ngay trong khuôn khổ của tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh này. Dưới đây là ba điều phi lý rõ ràng nhất.
Điều phi lý đầu tiên nằm ở ngay trong chính chính sách bao vây cấm vận Cuba mà chính phủ Mỹ đã và đang tiến hành trong suốt hơn 50 năm qua, kể từ sau cuộc khủng hoảng Caribe năm 1962. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, đúng là chính sách thù địch Cuba đã góp phần tô điểm thêm cho chiến lược ngăn chặn cộng sản của Mỹ. Nhưng hiện nay chính sách này hầu như không đem đến cho nước Mỹ bất cứ lợi thế nào trong quan hệ với Cuba nói riêng và với hầu hết các quốc gia trên thế giới nói chung. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, chính phủ Mỹ vẫn luôn đưa ra tiêu chí “phản đối chính phủ Cuba vi phạm nhân quyền” để biện giải cho chính sách bao vây cấm vận của mình. Trên thực tế, chính sách này lại khiến hàng triệu người dân Cuba phải chịu rất nhiều thiệt hại. Theo thống kê của tờ Washington Post, lệnh cấm vận kéo dài hơn nửa thế kỷ qua đã gây tổn thất cho nhân dân Cuba khoảng 1,126 nghìn tỷ USD. Tính chất phi nhân đạo của chính sách này được Bộ trưởng Ngoại giao Cuba Bruno Rodriguez Parrilla chỉ rõ trong bài phát biểu tại ĐHĐ LHQ: “Lệnh cấm vận của Mỹ là sự vi phạm luật pháp quốc tế, là sự xâm phạm chủ quyền của các quốc gia khác. Lệnh cấm vận này lấn át các quy định quốc tế về tự do thương mại và hàng hải giữa các quốc gia. Nó kéo theo những hậu quả khôn lường đối với hoạt động cung cấp thuốc men, lương thực và nhiều loại hàng hóa khác của người dân Cuba. Đây là sự vi phạm nghiêm trọng quyền con người của một quốc gia”.
Thứ hai, chính sách cấm vận đã không đem đến hiệu quả như chính phủ Mỹ mong đợi. Cuba đã không gục ngã vì bị bao vây cấm vận. Ngược lại, sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia đối với chính sách cải cách mở cửa mà chính phủ Cuba đang tiến hành vô hình chung lại đẩy nước Mỹ vào tình trạng bị cô lập nếu tiếp tục duy trì lệnh cấm vận. Trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay, chính phủ Mỹ lại càng không thể để quan hệ với các nước Mỹ Latinh rơi vào tình trạng thù địch, bởi không chỉ vì yếu tố thị trường mà còn bởi sự xâm nhập ngày càng sâu rộng của các nước bên ngoài châu lục như Nga, Trung Quốc, Nhật Bản v.v. Trên thực tế, trong nhiều thập kỷ qua, chính sách bao vây cấm vận Cuba luôn là chủ đề khiến cho quan hệ giữa Mỹ với các nước Mỹ Latinh luôn căng thẳng. Tại ĐHĐ LHQ, đại diện phái đoàn Nicaragoa thẳng thừng chỉ trích chính sách của Mỹ là “tội phạm và vô nhân đạo”. Hơn thế, việc Mỹ tiếp tục chính sách bao vây cấm vận Cuba lại càng tạo cơ hội cho các nước tập hợp lực lượng chống lại Mỹ. Từ sự dè chừng tiến tới chống đối, dù là ngấm ngầm hay công khai, rõ ràng đều là bất lợi cho nước Mỹ.
Điều phi lý thứ hai chính là cách xử lý của Liên Hợp quốc. Không biết đã có bao nhiêu nghị quyết của Đại hội đồng, thậm chí là những nghị quyết có tính bắt buộc như của Hội đồng bảo an, đã được thông qua nhưng không được thực thi nghiêm chỉnh. Trong những trường hợp như vậy, LHQ hầu như chưa tìm ra phương thức nào để có thể khắc phục. Nghị quyết lần này, cho dù được tuyệt đại đa số ủng hộ nhưng nếu Mỹ không thực hiện chắc các nước thành viên lại phải chờ để thông qua những nghị quyết tiếp theo. Ai cũng hiểu là không thể trông chờ “sự hảo tâm” từ những kẻ “vô lương tâm”, ấy vậy mà điều này vẫn cứ tiếp tục kéo dài hàng chục năm.
Điều phi lý cuối cùng chính là việc tất cả các nước thành viên của LHQ đều thấy rất rõ hai điều phi lý nói trên nhưng lại chẳng có biện pháp nào hữu hiệu để ngăn chặn. Điển hình như trong những tình huống mà nghị quyết của HĐBA không được thực hiện đúng với tinh thần của nó, thậm chí còn bị một số nước bóp méo để trục lợi (như nghị quyết 1973 về thiết lập vùng cấm bay tại Lybia), các thành viên của HĐBA, trước hết là các thành viên thường trực, đã không thể làm gì để có thể ngăn chặn cho dù họ đang sở hữu “quyền Veto”.
Đến đây một câu hỏi tất yếu phải được đặt ra: Vậy thì tại sao bao nhiêu năm nay, những điều phi lý này vẫn tồn tại? Chắc các bên liên quan cũng phải có những cái lý nào đó.
Với cộng đồng quốc tế thì các chính quyền Mỹ thường đưa lý do “phải ngăn chặn sự vi phạm nhân quyền ở Cuba” để biện giải cho chính sách bao vây cấm vận Cuba. Nhưng có lẽ sự tồn tại một Cuba có tư tưởng đối nghịch và một chính quyền không thể kiểm soát, lại nằm ngay sát nước Mỹ (cách Maiami, bang Florida 180 km), mới là lý do thực sự khiến Mỹ quyết duy trì chính sách bao vây cấm vận hòn đảo nhỏ bé này. Cùng với thời gian, tư tưởng này đã ăn sâu bám rễ vào tư duy của các đời tổng thống Mỹ, đến lúc này thậm chí nó đã trở thành một “nghi lễ truyền thống” đối với bất cứ một tổng thống mới đắc cử. Cho dù ngay từ khi lên nhậm chức hồi năm 2009, Tổng thống Obama đã muốn cải thiện cách hành xử với Cuba nhưng rồi ông cũng vẫn bị trượt theo lối mòn của những nhà lãnh đạo tiền nhiệm. Cái lý để chính quyền Mỹ tiếp tục chính sách bao vây cấm vận Cuba mang nặng màu sắc của một nước lớn.
Tình trạng “nghị quyết không đi đôi với thực hiện” của LHQ, trước hết là do chính từ nguyên tắc “tôn trọng chủ quyền của các thành viên” của tổ chức này. Chỉ duy nhất HĐBA có quyền hạn “trừng phạt” nhưng cũng bị hạn chế tối đa bởi “quyền Veto”. Nhiều ý kiến cho rằng, sở dĩ nhiều nước công khai ủng hộ Cuba trong nghị quyết của ĐHĐ LHQ lần này là vì uy tín của Mỹ đang sụt giảm nghiêm trọng, tiêu biểu là sau vụ scandal nghe lén các nước. Nếu đúng là do tư tưởng “không còn sự Mỹ” mới có một nghị quyết, thì rõ ràng sự thiếu hiệu quả của LHQ phải là do năng lực vẫn còn hạn chế của chính nó. Mặc dù LHQ còn có một nguyên tắc “tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế” (Pacta sunt servanda), nhưng trong một thế giới còn tồn tại những khoảng cách, phân hóa giữa các quốc gia lớn như hiện nay thì điều này là chưa đủ để biến những cam kết quốc tế trở thành hiện thực. Cái lý trong trường hợp này mang màu sắc của các nước nhỏ.
Cái lý để biện minh cho điều phi lý thứ ba chính là việc vẫn còn không ít người coi những điều phi lý trên như là một tất yếu.
Vẫn biết trong đời sống quốc tế đương đại còn đầy rẫy những bất công, những điều hết sức phi lý, và trớ trêu thay luôn được viện ra những lý do nghe rất có lý. Xét cho cùng, dù là lý của nước lớn hay nước nhỏ thì đều có xuất phát điểm giống nhau là của con người. Chính vì thế, mọi sự đều có thể thay đổi được nếu người ta thực sự muốn làm điều đó một cách công tâm. Để có thể quyết định về vấn đề cấm vận Cuba, Tổng thống Obama có lẽ nên tham khảo cựu Tổng thống Bill Clinton trong câu chuyện ứng xử với Việt Nam khi ông còn đương nhiệm.